Ngày đăng:
11/04/2024
Sau khi kết thúc Đại hội đại biểu Hội Nông dân Việt Nam lần thứ VIII. Đoàn đại biểu Hội Nông dân tỉnh Kon Tum do đồng chí Nguyễn Quang Thuỷ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Kon Tum làm trưởng đoàn đến tham quan, học tập tại tỉnh Tuyên Quang. Sau khi trao đổi kinh nghiệm trong công tác xây dựng tổ chức Hội và phong trào nông dân của hai tỉnh, đoàn đến thăm khu di tích lịch sử lán Nà Nưa.
Qua lời kể của cô hướng dẫn viên: Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Tân Trào gồm có 177 địa điểm di tích lớn nhỏ khác nhau nằm trong 2 thời kỳ đó là thời kỳ cách mạng tháng tám và 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, nhưng 177 điểm này lại không nằm trên một quần thể mà nằm trải dài trên 11 xã ATK của 2 huyện Yên Sơn và Sơn Dương của tỉnh Tuyên Quang. Địa điểm di tích đầu tiên của đoàn công tác đang có mặt chính là lán Nà Nưa, là nơi Bác Hồ đã ở và làm việc từ cuối tháng 5 đến ngày 22/8/1945 để chuẩn bị và lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8.
Trước khi về Tân Trào, Bác ở và làm việc tại Cao Bằng, nhưng khi ở Cao Bằng, Bác có nhận định rằng: Cao Bằng là một địa bàn chiến lược, dân có truyền thống cách mạng nhưng lại xa đồng bằng quá, cho nên Bác đã nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp cần chọn một nơi có địa hình tốt, có dân tốt làm trọng tâm liên lạc giữa miền xuôi, miền ngược và ra cả nuớc ngoài. Sau đó đồng chí Võ Nguyên Giáp có bàn bạc với đồng chí Song Hào và quyết định chọn Tân Trào, Sơn Dương - Tuyên Quang làm nơi đặt đại bản doanh của Bác. Ngày 4/5/1945 Bác Hồ đã quyết định rời Pác Pó, Cao Bằng về Tân Trào - Sơn Dương. Sở dĩ Bác Hồ chọn Tân Trào vì vị trí nơi đây đáp ứng được yêu cầu của Bác lúc bấy giờ, đó là: gần nước, gần dân, xa đường quốc lộ, thuận đuờng tiến, tiện đường thoái (gần nuớc, gần dân thì khi đoàn ta di chuyển từ phía ngoài đi vào có quan sát thấy phía dưới là làng Tân Lập và dòng suối Khuân Pén, dòng suối Khuân Pén hiện đã được ngăn lại thành hồ Nà Nưa mà đoàn chúng ta vừa mới đi qua, thuận đường tiến thì từ đây ta đi ra thị trấn Sơn Dương để từ đó đi về Vĩnh Yên và trở về Thủ đô Hà Nội, còn tiện đường thoái thì từ vị trí này ta vượt qua đèo, khe núi Hồng ở phía sau để sang Đại Từ, Định Hoá - Thái Nguyên để từ đó đi về các tỉnh giáp với biên giới .
Căn lán Nà Nưa tuy rất nhỏ nhưng cũng được chia làm 2 gian, gian bên trong là nơi Bác nghỉ ngơi, còn gian bên ngoài là nơi Bác làm việc và tiếp khách, phía trước cửa lán có 2 ống bương Bác dùng để lấy nuớc từ con suối Khuân Pén ở phía dưới mang lên lán để làm nuớc sinh hoạt, hình ảnh của Bác mỗi buổi chiều đi lấy nước đó là 1 tay chống gậy, 1 tay xách ống bương, còn khăn mặt trắng Bác vắt ở trên vai. Cũng chính tại khu rừng Nà Nưa, Bác Hồ đã cho triệu tập Hội nghị cán bộ toàn khu vào ngày 4/6/1945. Hội nghị đã quyết định thành lập khu giải phóng gồm 6 tỉnh Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà, thống nhất các lực lượng vũ trang thành quân giải phóng, đề ra 10 chính sách mới của mặt trận Việt Minh và Tân Trào được chọn làm trung tâm thủ đô lâm thời khu giải phóng.
Một trong những chỉ thị đầu tiên của Bác khi về đến Tân Trào đó là phải khẩn trương mở truờng đào tạo cán bộ ngay sau đó. Ngày 25/6/1945, truờng quân chính kháng Nhật khoá I đã được khai giảng tại Khuổi Kịch, Tân Trào và đây cũng chính là tiền thân của truờng sĩ quan lục quân I ngày nay.
Trong thời gian Bác Hồ ở và làm việc tại đây, để đảm bảo an toàn và bí mật thì tất cả bà con nhân dân nơi đây không ai biết Bác là Bác Hồ, vì khi Bác rời Pác Pó về đây thì cán bộ sở tại chỉ giới thiệu Bác là cán bộ thượng cấp thôi, trang phục của Bác khi đó rất giản dị trong sắc áo Chàm của bà con dân tộc Tày, Nùng nơi đây, nên bà con gọi Bác với tên gọi rất giản dị và gần gũi đó là Ông Ké Tân Trào hay Ông Ké Cách Mạng mà thôi.
Cùng ở với Bác tại khu rừng Nà Nưa còn có những người bạn Mỹ. Họ là quân đồng minh sang giúp đỡ ta về quân tư trang, súng đạn dược và kỹ thuật vô tuyến điện.
Thời gian năm 1945, khi đó Bác cũng đã 55 tuổi rồi, sức khoẻ cũng đã giảm sút, quãng thời gian Bác Hồ ở đây là 3 tháng, từ tháng 5 đến tháng 8 khi đó là mùa mưa và cánh rừng nơi đây là một cánh rừng nguyên sinh chứ không được quang đãng như bây giờ, nên muỗi và vắt rất nhiều. Sự khắc nghiệt của núi rừng nơi đây, cộng với những bữa cơm của Bác khi đó chủ đạo là món măng rừng chấm muối, Bác rất nhớ quê hương, nhớ nét văn hoá, sinh hoạt của người dân xứ Nghệ và có một nét văn hoá của người xứ Nghệ mà Bác không bao giờ quên đó là bát nước chè xanh. Vì vậy, mỗi ngày Bác thường nói với các đồng chí cảnh vệ là đi vào rừng tìm cho Bác lá chè xanh đun lên để làm canh chan với cơm, để Bác vơi đi phần nào nỗi nhớ quê của mình. Chính vì vậy, nên vào cuối tháng 7 năm 1945 giữa lúc tình hình trong nước và thế giới đang tiến triển có lợi cho ta thì Bác đã ốm, những cơn sốt rét của Bác cứ kéo dài triền miên, có người đã vào rừng lấy lá thuốc về cho Bác uống, có ngưới lại ra dòng sông Phó Đáy bắt được con ba ba đem về lấy tiết nhỏ vào rượu mời Bác uống và cầu mong Bác mau khoẻ lại, nhưng những phương thuốc đó cũng không làm giảm được cơn sốt của Bác. Thuốc men của chúng ta lúc bấy giờ chỉ có thuốc cảm và thuốc Ký Ninh, Bác cũng đã uống nhưng cũng không làm giảm được cơn sốt. Người cận kề với Bác lúc đó là đồng chí Võ Nguyên Giáp, nói là cận kề như vậy, nhưng đồng chí lại không ở cùng Bác trên lán Nà Nưa mà ở tại gia đình nhà ông Hoàng Trung Dân ở dưới làng Tân Lập.
Đồng chí Nguyễn Quang Thuỷ, UVBCH Trung ương HNDVN, Chủ tịch HND tỉnh Kon Tum và các đại biểu đang lắng nghe câu chuyện của Bác khi đến Tân Trào
Vào mỗi buổi chiều đồng chí Võ Nguyên Giáp lại lên lán Nà Nưa để báo cáo tình hình công việc với Bác và sau này thì trong hồi ký của Đại tuớng Võ Nguyên Giáp có kể lại rằng hôm đó khi lên báo cáo, nhìn từ phía xa, đồng chí không thấy Bác làm việc ở phiến đá trước cửa lán nữa, mà khi lên đến lán đi qua những bậc thang vào phía trong thì đồng chí Võ Nguyên Giáp đã thấy Bác ngồi tựa lưng vào vách nứa, mắt Bác nhắm nghiền, lưng thì ướt đẫm mồ hôi, còn toàn thân Bác thì run lên theo từng cơn sốt, hình ảnh đó đồng chí chưa thấy ở Bác bao giờ nên đã xin phép nghỉ lại với Bác một đêm và thừờng ngày thì Bác vẫn từ chối, nhưng hôm đó vì thấy sức khoẻ của mình yếu lắm rồi, nên Bác đã gật đầu đồng ý. Đêm hôm đó, sau khi tỉnh lại trong một cơn sốt kéo dài, Bác thấy mình rất yếu tuởng chừng như không thể qua khỏi, Bác đã có ý muốn dặn dò lại tình hình công việc cho đồng chí Võ Nguyên Giáp, lúc đó Bác có dặn rằng '' Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập''. Câu nói đó của Bác đã trở thành một câu nói bất hủ của dân tộc ta cho tới ngày hôm nay.
Sáng hôm sau, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã viết một bức thư tay hoả tốc để gửi cho các đồng chí cán bộ Trung ương và hơn hết là để tìm người chữa bệnh cho Bác, rất may là nhờ có sự mách bảo của bà con nơi đây, nên đã có một cụ lang già lên thăm bệnh cho Bác. Sau khi bắt mạch cho Bác xong, cụ lang già đó có nói rằng, sức khoẻ của Ông Ké bây giờ yếu lắm rồi, 9 phần xấu, chỉ còn lại một phần là tốt thôi, không biết bây giờ Tôi đi vào rừng kiếm thuốc có còn kịp nữa hay không. Tuy nói như vậy, nhưng cụ lang đó vẫn vào rừng lấy về 1 thứ củ gì đó, đem về sắc nước mời Bác uống, rất may là sau một vài lần uống thuốc như vậy Bác đã đỡ dần và gượng dậy làm việc ngay.
Còn riêng về phần cụ lang già đó, sau này khi hoà bình rồi Bác Hồ cũng có cử một số đồng chí quay trở lại Tân Trào để tìm xem ông cụ lang đó là ai để gửi lời cảm ơn, nhưng rất tiếc là cho tới thời điểm bây giờ, vẫn chưa biết cụ lang đó là ai, là người từ đâu tới, có hỏi bà con nhân dân thì bà con chỉ biết rằng đó là một ông cụ thiểu số đi chữa bệnh ở khắp nơi, tình cờ đi ngang qua đây, biết tin có một ông Ké bị ốm nên đã lên để chữa bệnh thôi, sau khi bắt mạch và bốc thuốc cho ông Ké xong thì cụ lang đó đã rời làng Tân Lập đi đến một địa phương khác để chữa bệnh cho bà con và đặc biệt là phương thuốc mà cụ lang già đó lấy cho Bác, thì cho tới ngày hôm nay vẫn chưa biết đó là phương thuốc gì, đó cũng là một điều rất tiếc cho cách mạng chúng ta.
Chính tại đây, Bác Hồ đã cho triệu tập hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng từ ngày 13-15/8/1945, khi đó về dự Hội nghị có khoảng 30 vị đại biểu, đại diện cho 3 miền Bắc, Trung, Nam với thời gian rất gấp nên các vị đại biểu chỉ họp tại một căn lán dựng tạm, cách căn lán Nà Nưa khoảng 20m đi lên phía trên và vào 23h đêm ngày 13/8/1945 đã ra bản quân lệnh số 1, hạ lệnh cho toàn dân đứng dậy khởi nghĩa giành chính quyền.
Đến ngày 22/8/1945, Bác Hồ đã quyết định rời căn lán Nà Nưa, rời Tân Trào để trở về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, nhưng trước khi về Bác có bảo với các đồng chí cảnh vệ, dỡ bỏ toàn bộ căn lán đi, để đảm bảo an toàn bí mật cho bà con nơi đây. Đến năm 1972 khi đồng chí Võ Nguyên Giáp lên thăm lại Tân Trào mới đi tìm lại vị trí và cho xây dựng đúng với vị trí và kích thước như ban đầu, toàn bộ bậc thang đá đi lên lán có 79 bậc tượng trưng cho 79 mùa xuân của Bác.
Tổng quãng thời gian Bác ở tại Tân Trào là gần 3 tháng, nhưng tất cả những đuờng lối chính sách, chủ trương của Đảng đã được Bác soạn thảo tại căn lán nhỏ đơn sơ này.
Nguyễn Văn Dần - Chủ tịch HND thị trấn ĐăkHà (lược ghi)
13
380.640